Về xã Hải Triều (Hải Hậu), tôi mới chỉ hỏi thăm
nhà của bác Vũ Văn Thịnh và anh Trần Văn Tuyến ở xóm Tân Thịnh, bà con nhân dân
đã hồ hởi nói ngay: Cô hỏi hai ông làm máy xới đất phải không? Rồi tận tình chỉ
nhà, chỉ khu vườn mà các ông hay làm để nhỡ không gặp ở chỗ này thì tìm chỗ
khác “thế nào cũng gặp”. Những sáng tạo cải tiến kỹ thuật của hai bác nông dân
này tạo ra đã được bà con địa phương ghi nhận, tôn vinh và ưu ái tặng cho cái
tên “nhà nông sáng tạo”. Xã Hải Triều trước có 120ha làm muối, sau khi chuyển
đổi, toàn bộ diện tích này được chuyển sang trồng màu để nâng cao hiệu quả kinh
tế. Những công việc lớn trong chuyển đổi sản xuất như quy hoạch lại hệ thống
thủy nông, san đất, lấp nền, rồi giống, vốn, kỹ thuật canh tác… thì đã được
Đảng bộ, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể hỗ trợ, hướng dẫn thực
hiện. Tuy nhiên thực tế bắt tay vào sản xuất mới phát sinh rất nhiều khó khăn
mà người dân phải tự khắc phục, trong đó khâu làm đất để chuyển đổi mùa vụ
khiến người dân rất vất vả. Mặc dù là nông dân nhưng bao năm chỉ quen nghề làm
muối thì việc cuốc đất làm vườn ban đầu với họ cũng khó khăn. Hơn nữa để cuốc
hàng ha đất vườn màu chỉ bằng sức người làm thủ công thì vừa không đủ sức, vừa
không đảm bảo tiến độ cho kịp thời vụ cây trồng. “Cái khó ló cái khôn”, sau bao
ngày đêm trăn trở, trằn trọc, bác Thịnh ước có chiếc máy thay đôi tay của mình,
nhưng tiền mua máy tốn quá. Rồi bác nhớ đến những “kỹ sư hai lúa” ở các nơi tự
nghiên cứu chế ra các loại máy móc nông cụ từng được giới thiệu trên báo, đài.
“Tại sao mình không thử làm như họ?”. Nghĩ vậy rồi bác quyết tâm phải chế ra
một chiếc máy xới vườn vừa hiệu quả, vừa gọn nhẹ phù hợp với đồng đất quê
hương, tận dụng các loại vật tư nguyên liệu sẵn có để hạn chế đầu tư. Nghĩ là
làm, bác mày mò tìm hiểu trên internet để xem các mẫu máy chuẩn như thế nào rồi
thử nghiệm với các nguyên liệu sẵn có trên thị trường. Bác tận dụng động cơ cũ
của xe máy và thêm các chi tiết khác như thép ống, thép hình, lưỡi cày, vòng bi
để làm các chi tiết. Nghĩ là vậy nhưng kỹ thuật cơ khí bác lại hoàn toàn không
hề biết. Để khắc phục điểm yếu đó, bác Thịnh tìm đến người thợ cơ khí gần nhà,
trao đổi ý tưởng, hỗ trợ về kỹ thuật, tính toán cấu trúc, tỷ lệ, nguyên lý hoạt
động của máy… Sau một thời gian mày mò thiết kế thử nghiệm, chiếc máy xới vườn
mi ni của bác Thịnh đã ra đời với những ưu điểm: nhỏ gọn, dễ sử dụng, động cơ
chạy bằng nhiên liệu xăng, điều khiển bằng tay cầm. Điều khá thú vị là bộ phận
răng cày của máy xới đất có thể tháo rời và thay thế kích cỡ tùy theo yêu cầu
sử dụng. Máy có năng suất xới 1 sào/giờ, tương đương với 10 lao động, chi phí
nhiên liệu hết 0,6 lít xăng. Với chiếc máy này, bác Thịnh không chỉ hoàn thành
việc làm đất ở khu vườn của gia đình mình mà còn hỗ trợ bà con trong xóm khâu
làm đất. Do đó tiến độ làm đất trồng màu của bà con được triển khai nhanh, tạo
điều kiện để đa dạng hóa các loại cây trồng. Nhờ có máy nên đỡ hẳn công và chi
phí làm đất đã góp phần nâng cao thu nhập cho bà con nông dân. Từ mô hình chiếc
máy này, nhiều hộ làm nghề cơ khí trong xã đã nghiên cứu sản xuất máy theo
hướng hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất của người dân. Anh
Trịnh Văn Diện, thôn An Trạch xã Trực Chính (Trực Ninh) lại có khả năng chế tạo
ra nhiều loại máy móc sản xuất nông nghiệp để phục vụ cho sản xuất tại trang
trại của gia đình. Bắt đầu thuê đất làm trang trại chuyên trồng các loại rau
màu như khoai tây, khoai lang, lạc, ngô nếp và ngưu tất, anh Diện gặp phải
nhiều khó khăn, đặc biệt tiền vốn để đầu tư mua các loại máy móc đáp ứng yêu
cầu sản xuất nhưng điều kiện kinh tế eo hẹp. Hơn nữa nhiều loại máy móc trên
thị trường không hẳn phù hợp với thực tế sản xuất ở địa phương… Vậy là với
cuốn Cẩm nang Cơ khí nông nghiệp được một người quen tặng, anh
Diện quyết tâm tự chế tạo máy để làm chủ kỹ thuật, không phải mời kỹ sư hay thợ
kỹ thuật về sửa chữa mỗi khi máy gặp trục trặc trong quá trình sử dụng. Với
chiếc máy cày MTZ cũ của Liên Xô sẵn có, anh Diện đã chế thêm các loại công cụ
chi tiết khác gắn vào phần động cơ máy cày để phục vụ các nhu cầu sản xuất khác
nhau như: làm đất, xẻ rãnh, tra hạt, làm cỏ, phun thuốc trừ sâu, tưới nước và
thu hoạch... Anh Diện cho biết: Việc đưa máy móc vào phục vụ sản xuất đã mang
lại lợi ích lớn không chỉ để cho kịp thời vụ, giảm lao động thủ công và tăng
năng suất cây trồng, tiết kiệm nguyên liệu mà còn đảm bảo an toàn cho người lao
động trong quá trình sản xuất. Trong rất nhiều tính năng của máy nông nghiệp,
tôi đặc biệt tâm đắc với việc chế tạo thành công bộ phận phun thuốc trừ sâu bởi
thực tế cách phun truyền thống bằng thủ công ở công đoạn này vừa chậm lại rất
hại sức khỏe cho nông dân. Tôi đã sử dụng hệ thống vòi phun thuốc, bình bơm gắn
vào máy cày và cài đặt tốc độ phun. Ước tính cứ 1 giờ dùng máy phun thuốc trừ
sâu sẽ thay thế cho 2 công lao động mà lại giảm thiểu tối đa nguy cơ ảnh hưởng
tới sức khỏe. Nhờ thiết bị cải tiến hiệu quả này đã giúp việc sản xuất của
trang trại được cơ giới hóa tối đa, đảm bảo thời vụ, giảm chi phí sản xuất. Mỗi
năm anh thu hoạch hàng trăm tấn rau màu các loại. “Tiếng lành đồn xa”, trang
trại của gia đình anh đã trở thành địa chỉ tin cậy để các tổ chức, doanh nghiệp
đề nghị hợp tác sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nhân dân trong
xã.
Không giỏi chế tạo máy nông nghiệp nhưng chị
Phạm Thị Liên, khu phố 2 Thị trấn Quỹ Nhất (Nghĩa Hưng) đã có nhiều sáng tạo
hoàn thiện quy trình trồng hoa cây cảnh và nhân giống những loài hoa quý mà
trước đây chị phải nhập từ nước ngoài hoặc vốn chỉ quen với khí hậu xứ lạnh như
Đà Lạt, Sa Pa. Hay như sáng kiến thuần hóa, đưa cá vược sinh sống ở vùng nước mặn,
lợ vào nuôi trong ao nước ngọt của ông Nguyễn Văn Yêu, xóm 16, xã Xuân Vinh
(Xuân Trường). Qua nghiên cứu, tính toán ngay khi thả giống, ông đã hạ độ mặn
của nước trong ao nuôi xuống từ từ để cho cá thích nghi với môi trường nước mới
trước khi nuôi thả chăm sóc trong ao nước ngọt toàn phần. Thành công từ cách
làm này đã bổ sung một đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, dễ tiêu thụ cho
nuôi thủy sản nước ngọt hiệu quả cao đối với nghề “canh trì” của địa phương.
Những nhà nông đam mê sáng tạo trên là điển hình
tiêu biểu cho hàng trăm nghìn nông dân trong tỉnh yêu lao động, say mê sáng tạo
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật giải quyết những khó khăn trong quá trình sản
xuất, đóng góp hiệu quả vào quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Họ
đã cho thấy khả năng sáng tạo vô cùng mạnh mẽ khi có tình yêu lao động. Nếu
được quan tâm đúng mức đầu tư để hoàn thiện phát triển các ý tưởng, sản phẩm
sáng chế giúp thương mại hóa sản phẩm vừa mang lại thu nhập cho người nông dân,
khích lệ họ phát triển “tài nguyên” trí tuệ, giải quyết tức thời, hiệu quả
những vấn đề bất cập đặt ra trong quá trình sản xuất./
Nguồn tin: Báo Nam Định