Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn
cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường
châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại
Béc-lin. Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết
thúc ở châu Âu. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân
đội Nhật.
Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh
thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi
phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp
quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi
phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn
sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính
quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào
cách mạng dâng cao. Ngày 09/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng
Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định
phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các
hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng
3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”.
Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc
Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành
Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức
các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng
dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh
mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về
Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại
hội quốc dân. Ngày 4/61945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự
lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng
8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang)
khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát
động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai
trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi
nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13/81945,
Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10
chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc
kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm
thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi
nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh
dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả
nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày
14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã:
Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8, khởi nghĩa giành
chính quyền thắng lợi ở Hà Nội.
Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải
Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày
25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long,
Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã
lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã
giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2/91945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước
cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và
thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam).
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng
đại đối với vận mệnh của dân tộc. Nó tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất
của cha ông thuở trước. Chí khí hào hùng của nhân dân ta trong thơ Lý Thường
Kiệt "Nam quốc sơn hà Nam đế cư..", trong "Bình Ngô đại
cáo" của Nguyễn Trãi vẫn thắm đượm trong từng lời, từng chữ của Tuyên
ngôn.
Tuyên ngôn Độc lập là bản hùng ca viết tiếp những trang sử huy
hoàng của ngàn năm về trước, đã đánh dấu thắng lợi của một thế kỷ ngoan cường
chống Thực dân và Phong kiến và mở ra một kỷ nguyên mới trên đất nước ta. Tuyên
ngôn Độc lập chẳng những đã khai sinh một nhà nước - nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, mà còn báo
hiệu sự thành lập một chế độ xã hội mới - chính quyền công nông đầu tiên ở khu
vực Đông Nam Á.
Từ đây với tư cách người chủ thực sự của đất nước, nhân dân Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc và chế độ phong kiến. Ba mươi năm sau ngày "Tuyên ngôn Độc
lập", năm 1975, Đảng ta, quân dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ
vang: giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân
tộc - dân chủ, tiến hành thống nhất nước nhà.
Tổ quốc ta được độc lập, nhân dân ta đời đời được tự do, tinh thần
bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của
mỗi người dân Việt Nam. Với ý nghĩa và tầm vóc lớn lao đó, ngày 2 tháng 9 trở
thành ngày hội lớn của dân tộc, ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.
Suốt 72 năm qua, lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh như vẫn còn
vang vọng sang sảng, đầy kiêu hãnh và tự hào từ quảng trường Ba Đình lịch sử.
Tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Tám, chủ nghĩa yêu nước nồng nàn và tư
tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do của Người không ngừng được toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta truyền lửa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong những năm qua, Đảng luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân lên hàng đầu, điều đó được
khẳng định qua những thành tựu to lớn của hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào trong tất cả mọi
lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế không ngừng được củng cố và nâng cao.
Đời sống của nhân dân được cải thiện từng ngày, cơ sở hạ tầng của
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng một bước đáng kể, các phong trào đền ơn đáp
nghĩa, xóa đói giảm nghèo được các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp
nhân dân đặc biệt quan tâm và ủng hộ nhiệt tình đã phát huy hiệu quả. Song con
đường cách mạng không phải chỉ có hoa hồng, đoạn đường sắp tới còn nhiều chông
gai, nhất là những khó khăn thách thức của nền kinh tế nước ta trong quá trình
hội nhập. Một lần nữa, bài học về sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân lại được Đảng ta đặt lên hàng đầu để toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ra sức
thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng, vì một xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh./.
Sưu
tầm